Lời Chúa: *Rm 6,3-9; Ga
6,51-59 *Kn 3,1-9; Lc 23, 33.39-43; *Rm 5,4-11; Ga 17,24-26
1. Cái chết
Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ này
để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những người đã khuất nhất là những
người đã có một mối liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như ông bà
cha mẹ. Chính vì thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩa về sự chết. Vậy cái
chết là gì và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?
Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách
cưỡng bức, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác.
Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ
phải để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân
yêu đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất
cả những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho
chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.
Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta phải
nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin thì cái
chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi mà
là một trở về nhà Cha, không phải là một chia lìa nhưng là một kết hợp mật
thiết với Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quý giá.
Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Ý nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lý: Hỏi người ta sống ở đời
để làm gì? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời
và thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh phúc đời đời.
Câu trả lời này thật ngắn gọn và rõ rệt, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề
đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được chân lý này,
hay cố tình quên lãng chân lý này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ lầm đường lạc
lối, không còn thấy được phương hướng cho cuộc sống, liều mình mất đi cả chì
lẫn chài, cả đời này lẫn đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, đã khắc trên
tường phòng mình hàng chữ như sau: Hãy sống như là sẽ phải chết. Hãy tập làm
quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục.
Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn cảnh, hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà
tính sổ cuộc đời. Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình
yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét
xử theo dáng bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy
trong nhịp sống thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết
thực tâm tha thứ cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà
giải đối với những kẻ đã gây nên xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh
phúc cho những kẻ xung quanh? Có biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu
thương hay không?
Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã
thực sự yêu thương anh em thì chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên Chúa,
Đấng có một trái tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân thưởng
những người thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đã giao hoà cùng Thiên Chúa, thì
bấy giờ cái chết không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không còn nói
như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại chúng
ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất trong cuộc
sống là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để rồi
dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
2. Bốn bà vợ
(Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn của Frère
Trần An Phong)
Một
phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
Ông
ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà
đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những
thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì
ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!
Và
mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà
vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng.
Bà là niềm hãnh diện của ông!
Mỗi
khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba.
Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn
ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một
không hai trên đời!
Còn
bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn,
thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của
ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay
cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng
lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến nàng.
Rồi
một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các
bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà
vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà
thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng,
đến bên chồng đang hấp hối.
- Em,
anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng
tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh
không?
-
Không!
Nàng
lạnh lùng đáp.
- Anh
đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói
xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm
thấu tim ông!
Người
phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:
- Em,
suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp
chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như
người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?
-
Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ!
Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.
Nói
xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một
nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.
Đau
buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
- Em,
trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà
anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ
đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?
- Anh
yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể
theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những
nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm
được.
Nói
xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng
đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:
- Em
sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!
Chàng
phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và
kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh
khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng
đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.
* * *
Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận
ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2 tháng
11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.
Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân xác
mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao
lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng cấp -
bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi
thế.
Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thư ba, sẽ
theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo
mình xuống huyệt.
Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ tư -
mà mình đã vì qúa chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức
tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu.
* * *
"Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,
Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp
phù hộ
Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ."
(Thánh Vịnh 145: 1-5)
3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh Hồn
(Suy niệm của Lm. Gioan B. Nguyễn Đình Lưu)
“Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ”. Lời thánh Monica cũng chính là ý
nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của
các ngài.
Đài
truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương
trình: “Những đứa con hiếu thảo”. Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó
là anh Kim Sơn. Tuổi thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đã sớm
ly dị khi đã có với nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần
trường học để bước vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là
bài học lừa lọc, dối trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng
ngày ngang dọc là những ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc,
là nỗi buồn tuyệt vọng cô đơn.
Trong
lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều,
chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải
qua nhiều năm tháng, tình thương của người mẹ không hề xói mòn, hy vọng của mẹ
không hề bị dập tắc. Cuối cùng tình mẹ đã chiến thắng. Năm 2005, anh được ra
khỏi trại và quyết tâm làm lại cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đình và
đưa mẹ về sống chung để có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh
bún đi bán, anh hứa với lòng mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì, anh sẽ mua cho mẹ.
Anh còn tuyên bố: hạnh phúc nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên
mẹ mãi mãi.
Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải làm ấm
ấp bao tấm lòng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần của con
cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng
những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người còn
nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà Giáo hội đã
dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu thảo nơi những
người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đình.
Ai trong chúng ta lại chẳng một lần sinh ra
bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đình. Đây chính là chiếc nôi của
tình yêu, ngôi trường của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ bé ấy, chúng ta
đã được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay yêu thương của
tình cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe, cha mẹ đã
phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại còn biết bao
trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay, chúng ta
thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình ổn định, lại chính là
lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự thành
đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những héo
hắt khổ đau, mà có khi còn cả mạng sống mình. Ca dao ViệtNam đã mượn hình ảnh
rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:
“Con
cò lặn lội bờ ao, gánh gạo nuôi chồng...”
hay:
“Cha
mẹ thương con như biển hồ lai láng,
con
thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn của
các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào
niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái
gì đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.
Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở trong
tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn còn đang là số phận đau thương
của chốn hỏa hòa rên xiết.
Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ tri ân,
chúng ta hãy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm
giúp các ngài ra khỏi chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với
Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào
chúng ta là con cháu.
Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng ta
hãy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy
sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn
nghe trong thánh lễ an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn,
là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành thánh lễ, là tái
hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các
đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là
đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.
Và còn gì hạnh phúc hơn, khi chúng ta biết
rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh hồn
sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài còn đang phải từng
ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang diễn
ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam mê với
niềm tin còn quá mỏng dòn và non yếu của người Kitô hữu.
Như Đức Kitô đã từng an ủi các Tông đồ
trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Lòng các con đừng xao
xuyến... thì các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:
- Đừng xao xuyến vì Con Thiên Chúa đã chết
để đền thay tội lỗi của chúng ta.
- Đừng xao xuyến vì Ngài đi là để dọn đường
cho chúng ta.
- Hãy tin vào Thiên Chúa vì Ngài là Đấng từ
bi và giàu lòng thương xót.
- Hãy tin vào Thiên Chúa và trung thành với
Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của Chúa.
Xin vì công nghiệp của Đức Kitô, nhờ lời
cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha thứ, và
sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin tưởng phó thác
nơi Chúa.
Kim Sơn sau cả một quãng thời gian đi
hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng,
anh đã làm cho người mẹ mình thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng dành
trọn thời gian còn lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.
Còn phần chúng ta, được đánh thức qua câu
chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ,
anh chị em thân yêu của mình trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng linh
hồn này?
Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ
lòng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã qua đời,
bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng
2 tháng 11 hôm nay, xin vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha
muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.
4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)
Trong
4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:
Một
người VN ở Cali chết thật bình thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng
20,000.00 USD, riêng cỗ quan đã hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có
giá cao đấy.
Ở
Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đã nỗ lực để
nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê người, ai cũng thành tài và thành
công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu. Ông đến tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc
dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện.
Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy
tờ trong người cụ, để điện cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký
giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của bệnh viện: vì tương lai khoa học!
Chuyện ấy cũng rất bình thường, nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các
đồng hương của cụ, vì mến yêu tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ,
muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc
nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không làm gì cả, mọi việc là bệnh viện đã
làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, vì sự tha thiết của các đồng hương,
người gia đình bằng lòng cho họ mượn một tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho
Thầy ở nơi khác.
Ở
Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở
đây đã lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ
tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy
mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã
chết mấy ngày rồi!
Tôi
cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nhìn
trên TV thấy người ta đang tìm kiếm Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi
cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và
những cái chết do sự trả thù.
Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người,
cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường
như là đã đẩy lùi bóng ma sự chết.
Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công
trong việc khiến cho con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu
hình, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc làm
mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.
Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng,
thì tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý. Những
cái chết chỉ vì cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu mang
phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ cái
bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại
khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai
nói thành lời.
Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng cái
chết của mình, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật:
Sự sống chan hòa yêu thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên của MỘT
NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi
mọi hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với con cái
mình.
Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa trong
Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:
Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh,
nhưng còn là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời mình.
Tình yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.
5. Thân xác và linh hồn – John W. Martens
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Ta
sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” (Ga 6,40).
Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy ra? Đây
là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi người
đều hướng vọng về sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được phục
sinh trong ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều gì sẽ xảy ra. Khi
chúng ta giã từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây ngộ
nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lý của Giáo hội. Hồi còn nhỏ tôi vẫn
nghĩ tưởng về sự phục sinh mai sau, và cho rằng khi tôi chết, tôi sẽ được sống
lại ngay lập tức trên quê trời, cùng với tất cả những ai đã được quyền năng của
Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nhìn theo quan điểm Kitô giáo. Tuy
nhiên nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng ta sẽ sống trên quê
trời, tuy không mang hình hài thân xác, nhưng linh hồn chúng ta được giải thoát
khỏi những ràng buộc của thể lý, và đó cũng là cuộc sống mà mọi người phải
hướng vọng về. Cuộc sống mai hậu, khi thân xác chết đi, là một điều rất khó
giải thích, bởi vì những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới cách rời rạc, và không
nhất quán đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống chúng ta sau khi chết đi,
Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến và dần dần.
Những người Do Thái cổ đại không đặt trọng
tâm vào thế giới mai sau, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với những
phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường thọ của
ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, được dư dật của cải, cụ thể có đầy tràn
hoa màu ruộng đất và đàn gia súc dư giả. Theo quan niệm cổ xưa, người chết sẽ
xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng tối của
sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.
Cựu ước rất ít nói về sự phục sinh. Mãi về
sau này, trong các bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy, khi dân Israel trở về kiến
thiết lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ trước
công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan điểm về số phận muôn đời của
người đã chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng, tuy không hệ
thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng ta, cả xác lẫn hồn, sẽ
được chỗi dậy trong ngày sau hết.
Trong khi khá ít những tư tưởng nói về cuộc
sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách Khôn
ngoan, bộ sách đã được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công nguyên
tại Alexandria, thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến “linh hồn những người
công chính” đã chết. Tác giả viết “Linh hồn những người công chính ở trong tay
Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết
rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng
ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng bình an (Kn
3 1-3). Quan niệm âm phủ không còn nữa, nhưng thay vào đó, là tình trạng con
người thoát khỏi cực hình và được an bình. Toàn bộ trình thuật đưa ra một tiến
trình phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện diện tiếp mãi của Thiên Chúa.
Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của Thiên Chúa trong tương lai, khi
đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn dân nước và xét xử muôn dân tộc,
và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3, 7-8).
Đối với người Kitô hữu, Vương quốc tương
lai này sẽ được khai mở khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người, kẻ sống
cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác
họ. “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như người đã chết, thì
chúng ta cũng sẽ nên một với người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại (Rm
6,5). Đức Giêsu đã nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và
sự chết “ Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, những ai thấy Chúa Con và tin
vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau
hết”.
Tất cả những ai còn sống trong thân xác
trần thế, chúng ta đợi chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương
quốc mai sau trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ cũng ngóng đợi sự viên thành
của Vương quốc nước trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời.
Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh
Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: “Để được chỗi dậy với Đức Kitô,
chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để được
cư ngụ với Chúa”. Sự chia lìa tạm thời này, chính là cái chết, khi thân xác
tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong ngày
kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với những linh hồn công chính đã ra đi trước
chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó tất cả sẽ
được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.
6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn – Hiền Lâm
I.
THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng
mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành phần
Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh Thanh
Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân hoan
chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, thì hôm
nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các đẳng
linh hồn trong luyện ngục.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta
một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ niềm
tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.
1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga 6,37-39)
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định
sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi
người, không loại trừ một ai.
- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống sứ
mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để
được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh hồn,
và mai sau cũng được phục sinh với Người.
- Các tín hữu đã qua đời, cũng là những
người như chúng ta, đã cùng được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh lấy của ăn
thần linh là Thánh Thể, và đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin tưởng lời
Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi không muốn
để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày
sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian còn sống, các linh hồn còn vướng những vết
nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp
thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.
2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)
Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý
Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin
vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và
được sống lại trong ngày sau hết.
- Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu
độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh
nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.
Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người
ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương
tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội
“bằng lửa”). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức
Ái, thì dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức
Kitô toàn thể (rửa tội “bằng máu”). Lại nữa, Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu mang tính
vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính vì thế mà trong bài đọc I, ông
Gióp đã nói: “Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết khi
thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người” (G 19,25-27).
- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa là,
như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: “Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta là
tội nhân…” (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không
thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa Giêsu Kitô,
miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.
Và đó cũng là tâm tình mà chúng ta dâng lên
Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.
II.
THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca 23,33.39-42
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập
chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:
Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy (bài
đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con
người chịu khi còn sống nơi trần thế là: “…Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ,
xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc… Chính
Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông…” (x. Is 25,6a.7-9).
Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô
cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng
với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi vì
những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải
(x. Rm 8,14-23).
Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ
lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một
thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn sàng
tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.
Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người
“trộm lành” kia, theo Chúa trong “giờ thứ 11”, nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn
cần ít nhất hai thái độ:
1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.
Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng “trộm
lành” có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang
án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ vì anh đã
thống hối và tin vào Chúa Giêsu.
Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của mình
và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.
2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi
thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi
Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của
đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin Mừng
là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình bằng nỗ
lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết
hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải
hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.
- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đã
qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của
mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải
thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là
những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm
tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ
còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.
Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên
Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào Chúa
gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.
III.
THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27
Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn
Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi được tin
Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:
1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên xưng của cô
Martha.
- “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em
con đã không chết”
Phải, “được Chúa thì được tất thảy, mất
Chúa thì mất sạch tay”. Lời nói của Martha như là một lời than trách vì Chúa
Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin
Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng Chúa Giêsu.
- “Bất cứ điều gì Thầy xin thì Thiên Chúa
cũng ban cho Thầy”
Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng bây
giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn
chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước
Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với
muôn vàn ơn phúc.
- “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết
sống lại trong ngày sau hết”
Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh
Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Đức tin Công Giáo chúng
ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh hồn sẽ được
hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng
hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I,
sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các
chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông,
chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.
2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.
- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. Vì
thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư
đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính Người
là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và
thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- “Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi thì vẫn
sẽ được sống”
Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa
trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này.
Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều
vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ
dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự
sống vĩnh cửu.
- “Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao
giờ phải chết”
Lời này hướng đến chúng ta là những người
đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ
không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống
vĩnh cửu.
7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
“Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ
tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành
động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người”. (Gv 3, 14)
Suy
niệm 1: Xin nhớ đến tôi
Người
ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi
dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt sức, nhưng cuối cùng anh đã gom được những mẫu
gỗ trôi dạt và tạo cho mình một túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc
còn sót lại. Ngày ngày anh nhìn về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng
dường như vô ích.
Thế
rồi một ngày, như thường lệ anh rời khỏi chòi để tìm thức ăn trong khi bếp lửa
trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về thì túp lều nhỏ đã ngập trong lửa, khói cuộn
bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất đã xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro
bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt vọng: "Sao mọi việc lại thế này lại xảy
đến với tôi hở trời!".
Thế
nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang
tiến đến gần đảo. Người ta đã đến để cứu anh. "Làm sao các anh biết được
tôi ở đây?" - Anh hỏi những người cứu mình. Họ trả lời: "Chúng tôi
thấy tín hiệu khói của anh".
Những người đã chết cũng đang sống trong
hoài bão chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó cứu
thoát họ. Họ đã bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã trôi dạt vào
một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ còn trông
mong nơi những người còn sống.
Người thanh niên trên đảo đã vô tình đốt
lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những mạc
khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin “xin cứu giúp họ”. Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những người
đã khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải thanh
luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác hơn để
cứu mình. Họ mong chúng ta hãy cứu giúp họ.
Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy: Mẹ
Maria đã mạc khải qua lời chị Lucia như sau:
“Đức Mẹ đã tỏ cho chúng con thấy một biển
lửa lớn, dường như ở dưới lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị
chìm ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt, hoàn toàn
như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực lửa, lúc
thì bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình họ cùng
với những đám khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp nơi như
những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh và rên
xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng mình sợ hãi. Có thể
nhận ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê tởm giống các con thú
kinh khiếp chưa từng thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong
giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối với Người Mẹ
thiên đình nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đã sửa
soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng
không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ tới
những người thân yêu của chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ của
chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người đã
gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không
còn cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được
xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện ngục, Giáo hội cũng
khẳng định: "Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được
thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu
thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng
phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được
chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời đời" (các số
1030-1031).
Vậy chúng ta có thể làm gì cứu giúp các
linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả nói
rằng việc nhìn nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức mang
ý nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho những linh
hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi”.
Mỗi người chúng ta đều có những người rất
thân yêu đã ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một
việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta “Xin đừng quên tôi”. Xin cho
chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp nghĩa những người đã
yêu thương chúng ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện cho họ. Amen
Suy
niệm 2: Dụ ngôn cây chuối
Có
một cậu bé hỏi bố rằng:
“Bố
ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?”
“Chỉ
một buồng duy nhất.” – Bố tôi trả lời.
Cậu
nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình
một cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.
“Khi
buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.” – Bố nói thêm.
Thực
vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá
của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó
phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa
thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối
mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình – chất dinh dưỡng trong gốc,
thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái
chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn chuối
và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối
tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời
này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát
triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà
còn là bài học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là
mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới biết
bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi
cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một
cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chin
thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không
thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện
qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng
với những vần thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không
nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
"Công
cha đức mẹ cao dày
Cưu
mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi
con khó nhọc đến giờ
Trưởng
thành con phải biết thờ song thân".
"Biết thờ song thân", thờ trong
khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng
phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi
con buôn tảo bán tần
Chỉ
mong con lớn nên thân với đời
Những
khi trái nắng trở trời
Con
đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn
đời vất vả triền miên,
Chạy
lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền
như non cao cũng chưa xứng đáng:
"Ai
rằng công mẹ như non
Thực
ra công mẹ lại còn lớn hơn".
Tình thương của cha mẹ thật lớn lao. Tình
thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con
thêm tươi sáng:
"Ví
dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu
tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó
đi mẹ dắt con đi,
Con
đi trường học mẹ đi trường đời".
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho
chúng ta, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì
tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh
vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài
cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài
còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:
"Ai
về tôi gửi buồng cau,
Buồng
trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.
Ai về
tôi gửi đôi giầy,
Phòng
khi mưa gió để Thầy Mẹ đi".
Trong đạo hiếu đôi khi những người con còn
dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của mình, một lòng
chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:
"Ơn
hoài thai, to như bể!
Công
dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em
nguyện ở vậy không chồng,
Lo
nuôi cha mẹ hết lòng làm con".
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ mà
ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh
cánh bên lòng một cuộc đời già nua của cha mẹ:
"Chim
đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng
gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai
sau cha yếu, mẹ già.
Bát
cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách chân
thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy
tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng
tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta “ăn quả nhớ kẻ
trồng cây”. Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ.
Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn sống biết kính trọng
vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh tối, kinh
sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen
8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(Trích từ vietcatholic.net - LM. Nguyễn
Phước).
Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến
khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh
Augustine viết, "Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng
ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ." Tuy nhiên, các nghi thức cầu
cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu
nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho
người chết mới được thiết lập.
Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện
Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt
và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ
Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận
đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.
Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ
này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một
đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có
thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công
Đồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của
người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.
Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ
này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất
hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và
họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.
Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn
giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi
thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.
***
Có nên cầu nguyện cho người chết hay không
là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo
Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với
chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia lìa với
người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù
còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.
***
"Chúng ta không thể coi luyện tội là
một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục - hoặc ngay cả "một thời gian ngắn
của hỏa ngục." Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà Thiên
Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác... Thánh Catherine ở Genoa, vị
huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng "lửa" luyện tội là tình yêu
Thiên Chúa "nung nấu" trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh
hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng
với Đấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì sự mơ ước được kết hợp
đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn" (Leonard
Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).
***
Lạy
Chúa Giêsu,
nếu
người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này
thì
thật là phiền toái.
Nhưng
cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì
phải chia tay với những người thân yêu,
vì
bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin
cho chúng con đừng nhìn cái chết
như
một định mệnh nghiệt ngã và phi lý,
nhưng
như một hành trình trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy
Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa
đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và
Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,
để
trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống Vĩnh Hằng.
Xin
cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.
Cái
chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,
chính
vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.
Cái
chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.
Cái
chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành
đang
trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống
một đời và chết một lần.
Lạy
Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.
Xin
dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống.
Amen!
(theo Maranatha 89)
9. Tưởng nhớ người đã ra đi.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình
buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.
Tâm tình này đạo đức và rất tình người. Tâm
tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống
của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng
mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo
quan chôn vùi dưới lòng đất.
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần
gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về
nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc
sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện
trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình
biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống trải qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ
đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này.
Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ
đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa
vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự
sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả
những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh
cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống
lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết
người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta
hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về
cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi
dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi
dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã
hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó,
nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi
nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ
Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong
gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay
vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những
chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ
phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời
sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này
luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn
thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được
Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các
tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng
âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng,
làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân
đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm
thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với
trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có
Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây
dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng
đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ
đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng
thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến
cầu nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn
đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa
gọi về đời sau.
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe
tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng,
chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước
Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm
thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình
yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh
lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân
nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm
đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta
đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống
và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai
bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ
không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy
chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có
chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương liên đới
dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh
hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn
chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho chúng
ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua.
Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây
dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng
chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa
trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm
phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn
trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba
ngôi.
8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá
hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình
nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài
sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên Chúa,
Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về
các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho
chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của
những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất,
hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên
Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng
tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi
sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ
cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây
kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi.
Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra,
giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để
dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây
giờ tôi nhận lãnh trở lại.
10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Anh chị em thân mến,
Biến cố ngày 11.9.2001 tại Hoa Kỳ đã làm
chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta
không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với
một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn
đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.
Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải
chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả
bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận
của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù,
phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lý
thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về
mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, vì
chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong
những biến cố thảm thương như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó,
khiến chúng ta phải suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết không
xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và
nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy
thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi
chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của
họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong
lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu
thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên
Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được
Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những
con người được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần
linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với
một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không
phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì
thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của
ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ
chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên
nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn
nào được giải quyết, được soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm
được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh
quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao,
vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một
thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu
và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn có
những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước
mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập
giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước
Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm
sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta? Vì
nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình
thương của Ngài cũng vô ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh. Chính
Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người
cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng. Nhưng
không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất
thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo
lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm
"lành", vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài
"Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con". Anh ấy biết gì
về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc?
Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần
thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối
Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để
thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc,
chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu
chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào
Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi
công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa
Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự
Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc
lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ
đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này,
sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên
sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta
thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa,
vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để
được sống lại với Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin
đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là
những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng
vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội, nhưng vì
tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh
luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc
cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất niềm hy vọng
vào đời sống vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm
được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không
biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích
lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta còn có thì
giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân thứ của Chúa,
Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua
lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ
đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi.
Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên
đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có
thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ
còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây
chúng ta có một cơ hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây
hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an
ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo
để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương. Ngày
hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức yêu
thương, nhớ đến các linh hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng
được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh
hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ
lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà
các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của
Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương,
cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho
chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia
trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều
biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không
phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi
chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh
hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên
đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những
con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại
càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải
sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc
và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển
cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng
ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta
cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.
11. Lòng biết và thảo kính đối với tổ tiên
(CHẾT CHÓC VÀ THƯƠNG NHỚ)
(Bài giảng của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Kính thưa quý OBACE, bầu không khí của
những ngày cuối năm dường như làm cho con người vội vã tất bật hơn, ai cũng vội
vàng và tranh thủ thời gian để hoàn tất kế hoạch của một năm. Có lẽ cũng vì mải
chạy theo dòng thời gian và công việc, khiến cho nhiều người đã quên cả sự hiện
diện của người bên cạnh, quên cả người thân đang ở trong cùng một mái nhà.
Trong không khí vội vàng ấy, thì Giáo Hội đã dành cả một tháng cuối năm để nhắc
cho người tin hữu nhớ rằng: dù mỗi người có vất vả bon chen đến đâu thì cũng
phải nhớ đến chung cuộc đời mình, và cái chết là điểm hẹn chung của mỗi người.
Cũng trong tâm tình ấy, Giáo hội nhắc cho mọi người nhớ đến và cầu nguyện cho
các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, người thân, những người đã ra đi trước chúng ta
và đã đang an nghỉ trên mảnh đất này, đồng thời biết quý trọng, biết ơn và thảo
hiếu với những bậc sinh thành những người đang còn sống.
Tất cả chúng ta sẽ phải chết, đó là sự thật
không thể thay đổi, thế nhưng điều quan trọng là chúng ta sẽ chết như thế nào
và sau cánh cửa sư chết, điều gì sẽ đến với chúng ta, niềm vui sướng hạnh phúc,
hay đau khổ hối hận đời đời, điều đó sẽ tùy thuộc ở nơi mỗi người biết sống hôm
nay như thế nào. Tất cả sẽ phải chết, vì đó là thân phận của con người có sinh
thì có tử, không ai có thể trốn tránh được. Cái chết nó vốn là tiến trình tự
nhiên, nhưng từ khi con người phạm tội, cái chết nó còn mang một ý nghĩa khác,
nó trở thành hình phạt cho con người, chính vì thế, cái chết nó trở nên kinh
khủng cho con người. Vì sợ hãi, nên con người tìm cách tránh né nó, không dám
đương đầu đối diện với nó, và vì thế nhiều người còn tìm cách lẩn trốn nó bằng
một cuộc sống ồn ào náo nhiệt, một cuộc sống bận rộn với công việc và quay
cuồng với tiền bạc của cải, và khi cái chết đến khiến họ tiếc nuối và sợ hãi.
Mọi người đều phải chết, nhưng điều quan
trọng là mỗi người sẽ chết như thế nào và điều gì sẽ đến với chúng ta sau cái
chết? Cứ nhìn vào những nấm mồ của những người an nghỉ, chúng ta có thể thấy,
nhiều người khi sinh thời họ đã từng là những con người nổi tiếng, ngang dọc
khắp nơi, và bây giờ cũng chỉ có một nấm mồ, điều đó chẳng còn ý nghĩa gì, điều
quan trọng là tình trạng hiện nay của họ ra sao, họ đang ở nơi nào? Nhìn như
thế để mỗi người có dịp kịp thời điều chỉnh lại nếp sống của bản thân, chúng ta
chỉ có thể bước vào nhà của Chúa nếu từ bây giờ chúng ta yêu mến Chúa và chọn
Chúa. Chúng ta sẽ phải để lại tất cả ở trần gian và ra đi với hai bàn tay
trắng, vì chúng ta không mang gì vào trần gian, thì chúng ta cũng sẽ không thể
đem theo bất cứ thứ gì ra khỏi thế gian. Chỉ một thứ tài sản duy nhất chúng ta
có thể mang theo đó là tình yêu đối với Chúa và tình thương của chúng ta đối
với anh em, và chỉ có một thứ hành lý duy nhất là các việc lành việc tốt, việc
bác ái và hy sinh.
Mỗi lần ra đất thánh này không chỉ nhắc cho
chúng ta về cái chết, mà còn dịp nhắc cho chúng ta biết cách sống, phải sống
thế nào cho trọn đạo làm người và đạo làm con đối với ông bà tổ tiên. Đứng bên
nấm mồ của người thân, sẽ không chỉ có những giọt nước mắt thương nhớ, mà còn
có những giọt nước mắt của sự hối hận muộn màng vì đã sống vô tình hay phũ
phàng với người đã khuất.
Ngày hôm nay trong xã hội mọi sự đều tăng
giá, chỉ có đạo đức làm người là giảm giá và mất giá trầm trọng, con người đối
xử với nhau càng ngày càng như dã thú, tình cảm gia đình anh em ruột thịt cũng
bị coi như hàng hóa, đạo làm con đối với cha mẹ cũng bị tính toán, bao nhiêu
cảnh đối xử tệ bạc với mẹ cha đang diễn ra từng ngày xung quanh chúng ta. Có
nhưng người đã không tiếc lời chửi mắng cha mẹ, coi cha mẹ không bằng một đứa
ôsin trong gia đình, không chỉ chửi bới, nhiều kẻ còn đánh đập nhục mạ những
đấng đã dày công sinh thành dưỡng dục mình, người ta có thể bỏ ra bạc triệu cho
những bữa nhậu với bạn bè, nhưng cha mẹ lại không được một lời hỏi thăm, một
tấm bánh. Đám tang tổ chức cho lớn, xây mộ cho to cho đắt tiền, việc làm đó
không phài là báo hiếu, không phải là lòng biết ơn, mà nó chỉ còn là giả hình,
là phô trương che mắt thiên hạ.
Thảo hiếu biết ơn tổ tiên và các bậc sinh thành
không chỉ là bổn phận của đạo làm con, mà còn là một đòi buộc của Đạo Chúa: Thứ
bốn thảo kính cha mẹ. Giới răn này đòi buộc chúng ta phải hết lòng yêu mên,
kính trọng, và biết ơn đối với cha mẹ của mình và cả cha mẹ vợ cha mẹ chồng của
mình, khi các ngài còn sống và cả khi các ngài đã qua đời; Vì chính cha mẹ là
những đấng đã cộng tác với Thiên Chúa để sinh ra chúng ta, nuôi cho chúng ta
khôn lớn với biết bao vất vả gian nan, bao hy sinh, bao mồ hôi nước mắt. Cha mẹ
chính là những người đã hy sinh cả cuộc đời để nuôi chúng ta khôn lớn và dạy
chúng ta nên người, vì thế chúng ta mắc nợ các ngài món nợ sư sống và món nợ
của tình yêu thương. Hãy kính trọng các Ngài, thông cảm an ủi khi các ngài tuổi
cao sức yếu, đừng nặng lời, đừng khiến các ngài tủi thân, hãy chịu đựng và chăm
sóc các ngài, như ngày xưa các ngài cũng đã từng phải chịu đựng và chăm sóc cho
chúng ta. Hãy lo lắng cho phần thiêng liêng của cha mẹ bằng việc giúp các ngài
được lãnh nhận các bí tích và ơn Chúa để nâng đỡ cho tuổi già của các ngài, hãy
làm tất cả những gì tốt nhất cho cha mẹ khi các ngài còn sống, vì khi cha mẹ
mất đi, sẽ mãi mãi không bao giờ tìm lại được.
Không chỉ biết ơn khi cha mẹ còn sống, mà
còn phải biết ơn cha mẹ khi các ngài đã qua đời, bằng việc đọc kinh cầu nguyện,
bằng việc hy sinh hãm mình, dâng lễ cầu nguyện cho các ngài, nhắc nhở cho con
cháu biết ơn các bậc tổ tiên. Hãy nhớ đến cha mẹ chồng cha mẹ vợ bằng việc chu
toàn việc hiếu thảo hương khói, giỗ chạp trong gia đình, đừng để mang tiếng,
những người có đạo là những người vô ơn bất hiếu với tổ tiên.
Hãy biết ơn và thảo hiếu với tổ tiên bằng
việc giữ lấy nề nếp gia phong của gia đình, thực hiện và làm phát triển tài sản
tinh thần mà cha ông đã để lại cho con cháu qua việc giáo dục con cái nên
người, qua việc giữ gìn đạo đức gia phong của gia tộc, bảo vệ danh dự của tổ
tiên, đừng để cho đồng tiền cho sự nghèo đói làm cho chúng ta trở nên bần tiện
nhỏ nhen. Đừng quên giáo dục con cái biết sống hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ,
bằng chính gường sáng của mình qua việc tôn kính thào hiếu với ông bà, vì sóng
trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy; chúng ta gieo giống nào thì sẽ gặt quả ấy, chúng
ta vạch mực đến đâu, thì con cái chúng ta sẽ đi đến đó. Vì thế không có bài học
nào sâu đâm và lay động cho bằng bài học bằng gương sáng của cha mẹ.
Điều răn thứ bốn của Thiên Chúa đồng thời
cũng đòi buộc bổn phận của cha mẹ đối với con cái, trước hết là bổ phận giáo
dục, nuôi dưỡng. Hãy giáo dục dạy dổ cho con cái sống đúng với đạo làm người
làm con Chúa, sống đúng với phẩm giá con người. Đừng quá chú trong đến việc học
hành văn hóa mà bỏ qua hoặc coi nhẹ việc giáo dục đức tin cho con cái, và xây
dựng nếp sống đạo đức cho cả gia đình. Cha mẹ hãy tạo nên một bầu khí đạo đức
và cầu nguyện cho gia đình, và trở thành gương sánh cho con cái trong việc cầu
nguyện và các việc đạo đức. Hãy tập cho con cái yêu mến và hăng say làm việc
tông đồ trong giáo xứ theo lứa tuổi của mình, vì khi còn nhỏ, các em có thói
quen và tinh thần tông đồ, thì sau này các em sẽ trở thành người tín hữu nhiệt
thành. Hãy làm cho gia đình mình mỗi ngày trở nên ấm cúng thuận hòa qua các giờ
kinh sáng tối mỗi ngày, qua các bữa cơm chung đầm ấm. hãy cố gắng làm cho bữa
cơm gia đình thật sư là lúc mọi người được tràn ngập niềm vui và sự chia sẻ,
đừng biến bữa cơm trở thành tòa án để kết tội nhau.
Nhưng người cha, hãy thực sự là cột trụ
trong đời sống của gia đình, là điểm tựa cho vợ con và cả nhà. Các người mẹ hãy
dùng đời sống đạo đức và sự đảm đang của một phụ nữ làm cho gia đình thêm ấm
cúng, hãy cùng nhau làm cho căn nhà cùa mình rộn rã tiếng cười, đừng biến gia
đình mình trở thành căn nhà trọ sáng đi tối về. Các người làm con hãy góp phần
mình làm vơi đi sự nhọc nhằn của cha mẹ bằng việc sống ngoan ngoãn vâng lời và
chịu khó học tập và làm việc. Mỗi người hãy sống thế nào để khi ngườui tân có
mất đi, mình sẽ không phải hối hận vì đã chưa làm được gì cho họ. Amen
12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
(Rm 5,5-11; Ga 17, 24-26)
Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn
cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ
để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói
cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi
người đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài.
Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài còn
hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài.
Chúa Giêsu còn nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh của cành
nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và
sinh nhiều hoa trái. Cành nào lìa cây sẽ bị khô héo. Vì người môn đệ gắn liền
với cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ
với Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa
Giêsu, và bởi vì các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn
đệ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.Trong
thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã thắng thế
gian” (16,33).
Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và
cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho
Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận
biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến,
là Giêsu Kitô».
Chúa Giêsu có
quyền ban sự sống đời đời cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được
ban cho người môn đệ là họ nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài
Ngài ra không còn tôn thờ đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng
Chúa Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa
Cha và Đấng Người sai đến là Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin
vào Ngài, để Ngài dạy cho chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cầu
nguyện tiếp: «Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho
con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha
đã ban cho con, vì Cha đã yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành».
Người môn đệ được
chia sẻ điều kiện sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ mình và sự tôn vinh
trong vinh quang.Sự chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu
biết về tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà
nền tảng của sự hiện hữu con người tìm thấy chỗ đứng của mình.
Vì người tin vào
Chúa Giêsu và trở thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên
người đó được tham dự vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa
Giêsu ao ước là Ngài ở đâu thì người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu
ở không phải tùy thuộc vào nơi chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu
luôn hiện diện với Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu
hình giữa các môn đệ và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng
trong mồ, các môn đệ không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các
ông trong sự vắng mặt. Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn
đệ và Ngài biết rõ những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu
Thiên Chúa, hứa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần,
Đấng làm cho các môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên
Chúa.
Vì thế, trong khi
đi rao giảng, các môn đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh
bên cạnh. Dẫu cho các ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách
trăm bề, các ngài vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới thiệu
Ngài là “Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự sống đời đời.
Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống”. Ngài còn nhấn
mạnh: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy
sống lại trong ngày sau hết”.
Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho sống.
Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống làm cho
người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi “làm thế nào có được sự sống đời
đời”, là thao thức của nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu. Người hướng dẫn họ
tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin vào Đấng được
Thiên Chúa sai đến.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự chấp
nhận của lý trí, nhưng còn phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết với
Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc “ăn thịt và uống
máu Người”
“Ăn thịt và uống máu Người” nói lên sự hiệp
thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như hình ảnh cành nho gắn liền với
thân nho. Những ai ăn và uống máu Người thì có sự sống của Người thông truyền
ngay khi còn ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do cái chết, vì Chúa hứa
cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái chết và sự sống lại
trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng người tín
hữu.
Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời
đời; “Như ông Môi-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải
được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)
Anh chị em thân mến,
những người thân của chúng ta đã tin vào
Chúa Giêsu, đã cố gắng cả cuộc đời mình để nên hoàn thiện như Chúa Cha, Đấng
ngự trên trời, đã nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong thân
phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của mình. Chỉ có
Chúa mới biết sự thiện chí và lòng trung thành của mỗi người. Và cũng chỉ có
Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.
Chúng ta tin rằng những người thân của
chúng ta đã từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự
hoán cải không ngừng, chắc chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót,
biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước
vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài
đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta tiếp tục cầu
nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống
lại cùng với Chúa Giêsu.
Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn,
Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người đã khuất.
Vì thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đã qua
đời, nếu ai viếng nhà thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08, nếu
ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những ơn
đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống kết
hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.
13. Lễ CÁC ĐẲNG – Lm. Đaminh Vũ Đình Thái
(Ga 19, 1.23-27a ; Rm 5, 5-11; Ga 6, 37-
40)
Chúng ta vừa bước vào tháng 11, tháng dành
riêng cầu nguyện cho các kẻ đã qua đời. Thực ra, chẳng ngày nào mà Giáo Hội,
qua các Thánh Lễ, lại chẳng cầu nguyện cho họ. Nhưng tháng này, Giáo Hội muốn
chúng ta sống ý thức hơn và thực hành mạnh mẽ hơn việc đạo đức này. Như vậy,
hôm nay quả là dịp tốt để dâng lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã khuất; trong đó
có ông bà, cha mẹ, thân quyến, bạn hữu và các bậc thầy của chúng ta nơi Chủng
Viện này. Nhờ Ơn cứu chuộc của Đức Kitô, xin cho mọi người đã “vắng bóng”được
tha thứ mọi tội lỗi và hưởng phúc lộc Thiên đàng”.
Để xứng đáng dâng lễ và cầu ơn, chúng ta
xin Chúa thanh luyện chúng ta trước.
Giảng
lễ:
I. Tôi tin có đời sau.Tôi tin sự sống lại và sự sống
vĩnh cửu.
Chẳng phải là tín hữu ngày nay chúng ta mới
hùng hồn tuyên tín như thế (Credo). Nhưng từ xa xưa, Gióp đã tuyên bố: “Sau khi
da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa.
Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Ngài, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải là người xa
lạ” (G 19, 26-27a). Ông tin có đời sau. Ông
tin rằng Đấng hằng bênh vực ông vẫn sống và sau cùng, Ngài sẽ đứng lên trên cõi
đất để cứu ông. Niềm tin của ông bền vững, chắc chắn đến độ ông ước ao lời ấy
của ông được tạc vào đá cho đến muôn đời.
Là tín hữu, chúng ta xác tín mạnh mẽ vào
lời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu chuộc chúng ta, khi Người nói:
“Ý của Đấng sai tôi là tất cả những kẻ Ngài đã ban cho tôi, tôi không để mất
một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 39). “Ai tin vào
Người Con, thì được sống muôn đời” (Ga 6, 40).
Không để mất một ai nghĩa là thế nào? Thánh
Phaolô, qua thư Rôma, giải thích rõ ràng rằng “ngay khi chúng ta còn là tội
nhân, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Người chết cho chúng ta được cứu, khi chúng
ta không có sức làm được gì để cứu lấy mình”. Không để mất một ai là “bằng
chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Ngay khi chúng ta còn thù nghịch
với Thiên Chúa, Ngài vẫn để Con Ngài chết. Ngài muốn cứu chúng ta khỏi cơn
thịnh nộ của Thiên Chúa, bằng cách cho chúng ta được nên công chính nhờ máu Đức
Kitô đổ ra. Làm như vậy là để chúng ta được hoà giải với Thiên Chúa. Giải pháp
ấy là kế hoạch cứu chuộc được thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm
5, 6-11).
Chúng ta nhắc lại Lời Chúa như vậy để củng
cố thêm niềm tin của chúng ta vào đời sau, vào sự sống lại và cuộc sống trường
sinh hạnh phúc với Chúa. Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện cho những người đã
chết được, nếu tiên vàn chúng ta còn hiểu nhạt nhoà mơ hồ về Tình yêu Cứu độ
của Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Kitô như thế.
II. Phải cầu nguyện cho những vong nhân.
Cầu nguyện cho những người đã khuất là một
bổn phận không thể xao lãng của chúng ta.
Biết Chúa cứu, tin rằng Chúa không để mất
một ai là một chuyện. Nhưng Giáo Hội luôn dạy chúng ta phải, bằng tinh thần
hiệp thông luôn cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời, chứ không được ỷ lại vào
Chúa.
Công đồng Vatican II nhắc lại mầu nhiệm
Giáo Hội cùng thông công như sau: “Trong số những môn đệ Chúa, có những kẻ tiếp
tục cuộc hành trình nơi dương thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống này nhưng
đang được tinh luyện và có những người đang được chiêm ngưỡng rõ ràng Thiên
Chúa Ba Ngôi vinh hiển. Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong đức mến
và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Nhận biết đúng đắn sự hiệp
thông này trong toàn Nhiệm thể Chúa Kitô, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội lữ hành
hết lòng kính nhớ, cầu nguyện cho những người đã chết”.
Hơn nữa, người tín hữu đã chết trong Ơn
nghĩa Chúa, nhưng chưa sạch hết mọi tội, và chưa đền tội bằng những hình phạt
tạm thời đời này, thì không thể vào thẳng Thiên đàng được, vì chưa xứng đáng
hưởng Thánh Nhan Chúa. Thánh Gioan cảnh báo rõ trong sách Khải huyền: “Tất cả
những gì ô uế, cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và gian tà, đều không được
vào thành…” (Kh 21, 27). Tất nhiên, họ phải chờ tinh luyện xong mới vào được
Thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Nên Công đồng Florence
(1439) mới định tín có luyện ngục để tinh luyện các linh hồn.
Purgatorium, chỉ luyện ngục, có nghĩa là
tinh luyện.
Bởi thế, hằng ngày Giáo Hội dâng lễ nài xin
Ơn tha thứ cứu độ của Chúa Giêsu cho các linh hồn; suốt tháng 11 này và đặc
biệt hôm nay ngày 2.11 còn tăng lên gấp 3 (mỗi Linh mục được làm 3 lễ trong
ngày). Giáo Hội kêu gọi chúng ta luôn nhớ về và sốt sắng cầu nguyện cho những
người đã khuất. Cầu nguyện là góp phần mình vào mở kho Ân xá, nhường cho các
linh hồn nơi luyện ngục, khi họ không thể làm được việc lành cứu mình. Giáo Hội
còn khuyến khích đi viếng nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện cho các linh
hồn, vì: “Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống” (Tục ngữ).
Thế nên, người sống có nhớ đến, có cầu…thì
người chết mới mát mẻ thanh nhàn. Thật ra, không phải cầu cho người “chết”. Nếu
chết là chấm tận, hết chuyện thì cầu làm gì và ích lợi gì? Nhưng là cầu cho
nguời vượt qua cõi chết, đi vào cõi sống muôn đời.
14. Nguồn nước mắt – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh.
Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi
nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam,
tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.
Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy
gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở
nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau
khổ của tình yêu”.
Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu
vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa
trang.
Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.
Có những nước mắt của lòng hối hận khôn
nguôi.
Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn
màng.
Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa.
Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong
chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước
mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám
phá ra những chân lý nhân sinh.
Khám
phá ra những hy vọng ứu độ.
Khám
phá ra chính mình.
Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn
biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một
sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết
đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá
bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng
rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc
Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh
đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước
cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống
mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Thế rồi, người nghèo này chết, và được
thiên thần đem vào lòng ông Apraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem
chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ
Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu
lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón
tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt
đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những
bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.
Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này
muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không
được” (Lc 16,19-26).
Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý
quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết
thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy
đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì
là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống thiếu
thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn
mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu
gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia
sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được
nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang.
Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa
trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả
khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến
những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó.
Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa
trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy
thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng
nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để
kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng
họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở
ra để hy vọng tràn vào.
Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu
thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha
thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự tin
tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động, đây là
những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng không cầm được
nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy
vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc,
nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương
con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra
chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra
chính mình trong sự thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo.
Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người khác.
Nhìn ảo về cuộc đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu
đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa
trang, để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi
biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy
ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).
15. Tri ân tình cha, tình mẹ - Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Đây
là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất
kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân
viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân
thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ,
tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có
một vật gì đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và
đầu cô.
Người
đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp
trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người
phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh
rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.
Đội
cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không
hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ
của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe
nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy
phấn chấn: "Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!".
Cả
đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người
phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên
dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối
cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của
mình để làm tấm chắn bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi
đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.
Bác
sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn
thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn
hình, nói rằng, "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu
con"...
Chiếc
điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất
cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. "Nếu con có thể sống sót, con
phải nhớ rằng... mẹ rất yêu con...".
Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một
chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha
ông ta vẫn nói rằng:
"Công
cha đức mẹ cao dày
Cưu
mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi
con khó nhọc đến giờ
Trưởng
thành con phải biết thờ song thân".
"Biết thờ song thân", thờ trong
khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng
phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi
con buôn tảo bán tần
Chỉ
mong con lớn nên thân với đời
Những
khi trái nắng trở trời
Con
đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn
đời vất vả triền miên,
Chạy
lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như
non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và thời
gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời
của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công
trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành
cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:
Đi
khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh
nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Tình cha mẹ thương con là một tình yêu
không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ
che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:
Mây
trời lòng lộng không phủ kín công Cha
Tần
tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể
sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha
mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:
"Đố
ai đếm được lá rừng,
Đố ai
đếm được mấy từng trời cao
Đố ai
đếm được những vì sao,
Đố ai
đếm được công lao mẫu từ".
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh
lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la
như biển cả ấy:
"Nhớ
ơn chín chữ cù lau
Ba
năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình".
Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình
thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con
thêm tươi sáng:
"Ví
dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu
tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó
đi mẹ dắt con đi,
Con
đi trường học mẹ đi trường đời".
Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha tình
mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc
các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh
vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài
cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài
còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta
dành cho các ngài.
Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại
một thông điệp cho con chính là: "con phải nhớ rằng mẹ rất yêu
con"... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống
cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta
được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình
thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn
phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của
lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng
dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành
cho những người đã qua đời.
Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu
mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận
dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy
làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách
trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân
thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ
tiên. Amen.
16. Luyện ngục
CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI
Vấn đề chúng ta tìm hiểu hôm nay, đó là có
những sự gì xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện ngục mà thôi
cũng đã đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện. Vào ngày
phán xét, chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà Chúa đã ấn định.
Mặc dù linh hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn biết bao nhiêu những
sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết
khiến chúng ta phải kêu lên: Lạy Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa
khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của biết bao nhiêu lần vấp phạm.
Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng cảm
thấy: Chưa bao giờ tôi đã lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được thỏa
mãn với chính bản thân mình?
Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng phục
thánh ý Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Thì đây, luyện
ngục sẽ là nơi để chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở. Lửa thanh
luyện càng bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những cặn bã,
thì hình ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi hình ảnh ấy đã
trở nên chói lòa, rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm dứt và chúng ta
sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.
Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm thấy
nông cạn và hời hợt khi cho rằng: Hình phạt luyện ngục thì không xứng đáng với
lòng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách
nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy
không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược lại với sự thánh
thiện và công thẳng tuyệt đối của Chúa.
Thánh vịnh 118 đã bảo: Thiên Chúa thật công
bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác quyết: Ngươi
sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.
Lòng thương xót và sự công bằng của Thiên
Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng hòa hợp với nhau
qua tín điều về luyện ngục.
Thực vậy, trong khi sự công bằng đòi phải
đền bù và thanh luyện, thì lòng thương xót lại đưa ra những phương tiện, những
cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó, chúng ta thấy được
hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì hình phạt ở luyện
ngục cũng giống như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều, đó là ở
luyện ngục thì chỉ tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn. Và hình phạt đau khổ
nhất chính là phải xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết Ngài là ai
và đang cố gắng tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không phải chỉ có thế.
Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh luyện,
nhưng luyện ngục không phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là lối dẫn
vào thiên đàng.
Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn
không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi
của họ đã được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng
và an ủi của luyện ngục.
Vậy luyện ngục là
gì?
Tôi xin thưa:
Luyện ngục là hỏa ngục, nhưng ở đó có niềm vui.
Hay nói một các
khác: Luyện ngục là thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ.
Họ đau khổ vì
hiện tại còn đang phải tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng vì
một ngày kia sẽ được nhìn ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.
Niềm tin vào
luyện ngục sẽ đem lại một sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ
phải tuyệt vọng. Thế nhưng tín điều này còn là một lời cảnh cáo gửi đến mổi
người chúng ta đang sống trong cuộc sống này: Đừng bình thản trong tội lỗi.
Đồng thời cũng là
một thôi thúc: Đừng thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của mình.
Sau cùng, hãy
thêm lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã
xác quyết:
Cầu nguyện cho
những người đã chết để họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm
thánh thiện và có giá trị cứu rỗi.
17. Nghĩ về sự chết – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
Tôi biết là có
ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách
nào.
Chắc chắn tôi
phải chết. Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không
ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi.
Cái chết cũng là
một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là
hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc
đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không?
Câu trả lời theo
lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời
theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh
những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu
trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý.
Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc,
cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.
Những hiện tượng
khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những
khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những
cái nhìn xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền
muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là
những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và
một tin tưởng đến từ cõi đời đời.
Tất cả những hiện
tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc
ra đi. Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm.
Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm
làm con Chúa nói riêng.
Trước đây, có
nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết,
những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng
là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban.
Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không.
Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người
xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn
Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy
là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội
lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như
nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành.
Trái lại nếu thấy
những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ
không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước
sang cõi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ
ràng công minh.
Vì thế, nói cho
đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ,
chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng
trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết của
mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự
chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.
Để đi đúng hướng
về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người
là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người,
đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn
gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo
Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn
quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống
kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được
thường xuyên phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết của
mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người
truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa
phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác
biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô.
Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo
mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan
báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ
ngoan ngoãn trong tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết của
mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này,
tôi nhận được từ Lời Chúa: "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là
chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34).
Để hiểu thấm thía
hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh
Gioan:
"Chúng ta
biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương
anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình,
ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở
lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức
Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí
mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng
thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong
người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương
nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.
Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và
chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa" (1Ga 3,14-19).
"Phần chúng
ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai
nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ
nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể
yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận
được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình" (1
Ga 4,19-21)
Khi tôi sống với
những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được
chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó
mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do
để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều.
Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần
chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi
mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.
Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn
lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một
cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân
mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi
chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và
hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta
bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng
tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.
18. Luyện ngục
Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây,
người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách kính
cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an
táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình,
tiếng khóc biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi
thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về
nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh luyện nữa.
Có
một người sau khi chết được dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó
đang đứng trong một vũng bùn lên tới quá đầu gối. Có người đang hút thuốc.
Người khác thì uống cà phê và mọi người đều cười nói với nhau một cách vui vẻ.
Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục là như vậy, thì đâu có gì tệ lắm.
Vừa
nghĩ thế, anh ta liền nhìn thấy một người trong bọn trông giống như một viên
cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố: Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hãy
chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên trời.
Nghe
đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ.
Vậy luyện ngục là gì?
Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một căn
hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh, luyện
ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch, xứng đáng
được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.
Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn đã
được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục
thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương.
Một
ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn.
Thế nhưng, một người con của cụ trả lời: Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba
kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng cả giường lẫn chiếu.
Ông
cụ đáp lại: Lên thiên đàng, thì chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày
xuống luyện ngục là đã phúc lắm rồi.
Thực trạng bất toàn của con người khiến
chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên
Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là
hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó,
tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống
lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy,
Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào
trong vương quốc của Ngài.
Đối với các linh hồn đáng thương còn mang
dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền
đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề
nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan
Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói buộc
trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.
Với ý thức về tội lỗi của mình, các ngài sẽ
không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Còn
mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn dau
cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng.
Chính vì thế, trong niềm hiệp thông, chúng
ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ
chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến,
đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài
một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
19. Bóng câu cửa sổ
Kiếp
phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,
Tươi
thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một
cơn gió thoảng là xong,
Chốn
xưa mình ở cũng không biết mình.
(Tv 103, 15-16)
Vào
ngày 31 tháng giêng năm 2000, một hung tín được loan ra: chuyến bay 261 của
hãng Alaska với 83 hành khách và 5 nhân-viên phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mễ Tây
Cơ để đi Seattle, tiểu bang Washington, đã rớt xuống Thái-Bình-Dương, cách Los
Angeles chừng 20 dặm đường chim bay. Khoảng 10 xác chết đã được vớt lên, số còn
lại đã bị tan nát trong lòng biển cả. Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái
thiên-thần mới được bốn tháng. Vì thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đã
đưa em về quê ngoại để được rửa tội.
Chỉ
trong năm 1999, ba cánh chim sắt đã lao xuống biển cả. Đêm 16 tháng bảy năm
1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con trai duy-nhất của cố Tổng Thống John
Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới
cháu mình, đã bị rớt xuống Đại Tây Dương. Một tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt
được các thi-hài.
Mấy
tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập với trên 200 hành-khách, đã rớt xuống
Đại-Tây-Dương và không một xác nào được tìm thấy.
Vào
sáng thứ ba (11-09-2001). một đại-họa khủng-khiếp đã làm chấn-động thế-giới:
nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đã cướp giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ
đồng-hồ đã làm nổ tung hai ngọn tháp chọc trời của Trung-Tâm Thương-Mại
Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một cánh của Ngũ-Giác-Đài ở
Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba ngàn người, trong số đó không
thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế, tài-chánh, ngân-hàng, kỹ-thuật và
quân-sự...
Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung vào
sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Đệ-Nhị đã mô tả
đại-họa đó là "một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc
phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người."
Tôi mới có dịp nói chuyện với một người bạn
rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đã được khâm-liệm vì bị ngã gục
dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ.
Ngay cả hôm nay đây, biết bao người đang
nối tiếp nhau lìa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những
trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ
cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một
lời báo trước.
Khi quan-sát một số người đang cuồng-nhiệt
theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất thì chúng ta sẽ hết sức
ngạc-nhiên với ý-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống đời đời.
Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo lý-tưởng
quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: "Chúng ta đừng quan-tâm đến
sự chết, nhưng hãy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta tìm kiếm không phải
là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những khát vọng của
chúng ta chỉ thuộc về cõi tạm nầy chứ không phải thuộc về cõi đời đời, và
thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cõi phong-phú về tiền bạc và đủ
các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải lo nghĩ
đến sự chết." Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đã nói rõ ràng: "Có thời để
sinh ra, có thời để lìa đời." (Gv 3, 2).
Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong sống
đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi
rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả cõi
đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi trong
vòng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi hai.
Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đã viết: "Thân phận con người
là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét." (Dt 9, 27).
Mặc dầu khoa-học đã tiến-bộ, sau khi vượt
qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung, nhưng
trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống trên mặt
đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục. Tuy-nhiên,
chân-lý bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc bằng sự
chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng, như lời
Thánh-Kinh: "Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét,
thiên-đàng, hỏa-ngục thì con sẽ không bao-giờ phạm tội."
Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau: "Ở
đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và nộp
thuế." Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất vấn-đề
quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ý-thức hơn về việc tử-thần đang tiến gần
mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đã căn dặn: "Thế thì của
Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa." (Mt 22, 21).
Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin sửa
đổi hình phạt đang chờ đợi mình thành một án treo; người nghèo cũng không thể
nói với sự chết cho mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm-hữu con người từ
lúc mới lọt lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi người
đông-đảo họp nhau cầu-nguyện thì đã ra về và "còn lại một mình tôi"
trong nơi hoang vắng...!
Thánh Giacôbê đã viết: "Anh em không
biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước xuất
hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi." (Gc 4, 14). Như đám sương mù
buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến mất
giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi lại
tan ngay.
Thật vậy, sự sống chẳng khác gì cái thoi
dệt cửi: "Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không một
tia hy-vọng." (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đã viết: "Chỉ khi nào thời
gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời
mình để nung đốt lò dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những
trang còn lại của đời sống mình không còn bao nhiêu nữa". Tiên-tri I-Sai-A
đã suy ngắm: "Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng
nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ." (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử
quyển I cũng viết: "Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa
sổ, không để lại dấu vết." (1 Sb 29, 15).
Khi William Russel lên đoạn đầu đài, ông đã
lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói: "Xin
ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa. Bây giờ tôi sắp
bước vào cõi đời đời."
Thánh Gióp cũng đã từng than-thở: "Vì
tuổi con người đã được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy thuộc ở
Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua." (G 14, 5). Tác-giả
Thánh-Vịnh cũng đã nói: "Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi thắm như
cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết
mình." (Tv 103: 15,16).
Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua với
một tốc-độ tăng dần mãi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già.
Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: "Người phàm
nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi
thần khí Đức Chúa thổi qua." (Is 40, 6-7).
Trong những giờ phút cuối cùng đời mình,
Cesar Bergia đã nói: "Trong suốt đời sống của tôi, tôi đã tiên-liệu mọi
sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà không
chuẩn-bị được gì trước cho sự chết của tôi."
Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân xanh,
suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất thình-lình lâm trọng bệnh. Trước khi sắp từ-giả
cõi đời, anh đã rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với những lời
gào thét sau đây: "Ôi, tôi đã phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi đã
làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu trước
mặt Ngài?" Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đã cảnh-cáo:
"Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao
chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quý như thế?"
(Dt 2, 3).
Một văn thi-sĩ khuyết-danh đã viết những
câu sau đây, trong bài thơ 'Sách Sự Sống':
"Tôi quì cầu-nguyện, nhưng chẳng lâu
được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm vì hóa-đơn đòi tiền
chồng chất.
Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một kinh và
nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đã làm xong và tâm-hồn tôi
thanh-thản, bình-an.
Suốt ngày tôi không có thời-giờ để buông một
lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè vì sợ họ cười nhạo tôi.
Tôi luôn miệng la lớn: Không có thời-giờ,
không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo cho việc
rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.
Tôi trình-diện trước mặt Đức Chúa; tôi đứng
với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự
sống.
Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói: 'Cha
không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng lúc
nào có thời-giờ.' "
Khi thể xác của chúng ta chết và sự sống
của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn
tiếp-tục sống động trong cõi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đã nói:
"Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi." Cyrus cũng đồng
ý-kiến: "Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi còn ở trong một
thân-thể hay chết." Chính Emerson cũng nói: "Bằng chứng hiển-nhiên về
sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi
kết-luận trái ngược." Mark Twain đã viết: "Tôi không bao giờ tìm thấy
mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có
khuynh-hướng chờ-đợi nó."
Xưa kia Đức Chúa đã phán với vua Hezekiah:
"Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết, chứ không sống nổi đâu." (2
V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên phán cho mọi
người: "Ngươi hãy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi." (Am 4,12).
John Bunyan, tác-giả cuốn "Thiên-lộ
lịch-trình", đã nói lúc ông gần qua đời: "Các bạn đừng than khóc cho
tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời nơi có Đức
Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội-nhân
bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ
gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống sung-sướng
trong cõi đời đời."
Chúng ta hãy lợi-dụng những giây phút chóng
qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: "Thiên-Chúa yêu
thương thế-gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16).
"Sinh ký tử qui" (sống gởi thác
về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Phòng trong cuộc
sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đã nói: "Vì đối
với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi." (Pl. 1,21).
Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó, các
Anh Chị trong dòng Tiểu-Muội và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đã đọc kinh "Dâng
Mình" của Cha Charles de Foucauld như sau:
"Lạy
Cha, con phó-thác mình con cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha
làm cho mặc lòng, con cũng cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn luôn, con nhận lãnh
tất cả, miễn ý Cha được trọn-vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo-dựng. Con
chẳng ước muốn chi khác nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn
con trong tay Cha. Con dâng linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả tình yêu
của lòng con, vì con mến Cha và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con,
phó trót mình con trong tay Cha, không do-dự đắn-đo song vô-cùng tin cậy, vì
Cha là Cha của con. Amen."
20. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
Một
linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em lãnh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những
điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em trai: “Thiên Chúa sẽ nói gì trong ngày
phán xét chung với những người đã sống cuộc đời rất tốt lành?” Không do dự, chú
bé đáp: “Hãy lên trời sống với Ta”. Rồi linh mục hõi một em bé gái: “Còn những
người sống cuộc đời rất xấu xa thì sao? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ?”. Cô bé
đáp: “Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác”. Linh mục nói
tiếp: “Vậy Thiên Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và
cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục?” Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả
lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: “Thiên Chúa sẽ nói: “Ta sẽ nhìn các
con”.
Câu chuyện này làm nổi bật hai trong nhiều
chân lý mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và trong cả
trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn trong luyện
hgục. Chân lý thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời và không
xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua đời? Chỉ
Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý khác được em
bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó không
được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này, cho nên họ sẽ
được nhìn thấy Thiên Chúa về sau.
Bạn không tìm thấy từ “luyện ngục” trong
Thánh Kinh, nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về nó. Chính Chúa chúng ta muốn
nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài nói về tội không thể
tha thứ vì từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)
Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi linh
hồn sẽ bị tống vào đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi
trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở thế
gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện
(ICor 3,13).
Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục. Giuda
Macabê, nhà lãnh đạo Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã chết: “Cầu
nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha
thứ tội lỗi” (Amac 12,46).
Các linh hồn lành thánh không được lập công
được nữa vì họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp mình nhưng có thể
giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng Thiên Chúa và nhìn
xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau khổ vì
lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.
Nhiêu linh hồn lành thánh này là những
người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng
việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: “Xin Chúa nhớ đến tổ
tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày sống
lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”.
Xin
Chúa chúc lành cho các bạn.
21. Bên kia sự chết
Trên
giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau:
"Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh".
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã
được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân
của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời... Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người
trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy. Cần được thương, cần
được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang
đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn
chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất
lực của mình.
Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu
của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp
"các thánh thông công", Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã
cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây
đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh
và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu
tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong
Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như
sau: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã
chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành
thánh...".Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau:
"Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người
và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa
Cha...". Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận
thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh
thiện.
Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay
ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong
chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính
cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và
một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với
chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết không còn
là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết.
Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu
liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con
người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những người
đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.
Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào
đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh
vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc
sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.Yêu thương chính là tái sinh, là
sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta
trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin
Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho
chúng ta.
22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK
(Lc 23,33-34.39-43)
Câu
hỏi gợi ý:
1) Thiên
Chúa không muốn con người đau khổ, tại sao Ngài lại bắt linh hồn người chết phải
thanh luyện cho hoàn hảo mới được vào thiên đàng?
2) Chịu
thanh luyện để nên hoàn hảo, Bản chất của sự hoàn hảo này là gì? Là tình yêu?
đức tin? sự trong sạch? hay sự tôn trọng lề luật? hay sự gì khác?
3) Người
gian phi đầy tội lỗi trong bài Tin Mừng, tại sao lại được Đức Giêsu cho vào
thiên đàng ngay? Vậy yếu tố cốt yếu nhất để vào thiên đàng là gì? Đọc kinh? cầu
nguyện? dâng lễ? bố thí? giữ luật? hay tình yêu? lòng vị tha?
CHIA SẺ
1- Niềm tin của người Công giáo về luyện ngục
Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công
giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng ta
thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo. Sự
thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: «Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn
sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là "Thanh
Luyện"» (DS 856/464).
Mục đích của việc thanh luyện là làm cho
linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một
chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một sự hoàn
hảo như thế thật là hợp lý, vì đó là một «nơi» hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn
thánh thiện, là «nơi» chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. (Gọi là
«nơi» thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa ngục không
phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh
hoặc tâm lý. Chẳng hạn: Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc,
không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. Còn Hỏa
Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa,
ích kỷ...)
2- Thiên đàng đòi hỏi người trong đó phải thật hoàn
thiện
Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà
ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi rằng: để vào Thiên Đàng thì phải thật trọn
hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về «nơi» lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có
thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những
tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà còn ích
kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù
chỉ một chút xíu, thì chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây nên đau
khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô
nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một
cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước
vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa thì phải thanh
luyện cho hết. Tình trạng thanh luyện ấy được gọi là «luyện ngục».
3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là đầu mối gây đau khổ
Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn con
người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một cách thảm
thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp cứu
chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân gây
nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: «Người đã yêu
mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta» (Kh 1,5). Đau khổ chỉ
là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh tội lỗi. Diệt
khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi mới
là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người vì còn u mê nên thường sợ khổ chứ không sợ
nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục
phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế, dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con người vẫn
cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người
khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu
họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau
khổ.
Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích kỷ,
chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm hay biết đến
đau khổ và hạnh phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau khổ
chính là tính ích kỷ.
4- Tình yêu hóa giải đau khổ và đem lại hạnh phúc
Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau khổ,
thì ngược lại, tính vị tha hay tình yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc. Do
đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn tình yêu và
không còn chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ý nghĩa
sâu xa câu nói Đức Giêsu, khi có người – vốn đã giữ rất chu đáo các lề luật –
hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: «Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy
đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.
Rồi hãy đến theo tôi» (Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và
thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc đích
thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho mình chính là
kho tàng tình yêu.
Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay
đã thể hiện được tinh thần vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà anh
không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của Đức
Giêsu, thương cho Ngài bị hàm oan: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì
xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!». Chính vì thế, anh
đã được Đức Giêsu nói: «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên
Thiên Đàng». Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đã phát tâm
yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với hạnh
phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh Phaolô: «Tình yêu che phủ muôn vàn
tội lỗi» (1Pr 4,8).
5- Chấp nhận đau khổ vì tình yêu là bí quyết của hạnh
phúc
Câu chuyện về người trộm lành trên làm tôi
nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài đã
phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều
người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó đang quằn
quại với những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô cùng. Tình
thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho mọi
người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ thoát
khỏi những cực hình ghê gớm này! Vừa nguyện như thế xong thì lập tức ngài tự
nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia thì vẫn tiếp tục ở lại
đấy chịu đau khổ.
Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ ngôn.
Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực nghiệm
thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang phải chịu,
thì tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội. Nhưng khi tôi
quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi muốn làm giảm
bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ, hay chịu khổ
nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập tức tôi cảm thấy
tâm hồn mình mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy dù một cách
khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn tăng lên – bỗng nhiên mất đi tính
dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không còn làm tôi đau khổ
được như trước.
Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống gia
đình, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ, mọi
buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc, thì
điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh phúc
hơn. Tôi hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người tôi
yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu
thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả
hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho
tôi. Và thế là cả gia đình tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong
bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực
nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi thành một
gia đình hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy mình hạnh
phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không
phải khi mình sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên mình sẽ
phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại đem lại
hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi
trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đình, trong xã
hội… và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật này
để may ra hữu ích cho ai đó!
CẦU NGUYỆN
Lạy
Cha, thánh Gioan nói: «Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn
hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không
đạt tới tình yêu hoàn hảo» (1Ga 4,18). Con cảm thấy chính khi con thật sự có
tình yêu thì con không sợ đau khổ, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác
được hạnh phúc. Và khi con không sợ đau khổ, thì đau khổ không còn tác oai tác
quái trên con nữa. Nó không còn khả năng làm con mất bình an hạnh phúc được
nữa. Và con cảm thấy bình an và hạnh phúc do tình yêu đem lại chính là thiên
đàng. Một thiên đàng mà con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này.
23. Các tín hữu đã qua đời.
Trong thánh lễ cầu cho những người đã qua
đời, chúng ta thường hát:
- Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ
yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.
Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta phải
giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng thời
cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lý, chúng ta đã biết
luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải
thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.
Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn cực
hình muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy vì Thiên
Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận
chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đã được tha
thứ, nhưng còn phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may
mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những thánh
lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt hình phạt và
mau giải phóng các linh hồn ấy.
Sau đây chúng ta hãy lắng nghe một tiếng
nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin với
Chúa cho mình được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi nhận:
- Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy sinh và
cầu nguyện cho.
Một linh hồn nói:
- Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi suốt
bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự tay
tôi đã xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người mẹ, mà
tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong tình trạng ơn thánh. Bây giờ
tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hãy cứu giúp tôi, để
mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì
đó là một bổn phận bác ái. Nỡ lòng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ kêu
cầu chúng ta. Nỡ lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước một người bạn đang
chới với giữa dòng nước mà không tìm cách cứu vớt.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì
đó là một bổn phận công bằng, vì tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong sự
thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người bị
đền bù, rất có thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù gương xấu của chúng ta
mà vấp ngã, rất có thể vì yêu thương chúng ta mà các ngài đã sai lỗi điều nọ
điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về những
hình phạt của các ngài và phải chia sẻ về những hình phạt ấy.
Sau cùng, hãy giúp đỡ các linh hồn nơi
luyện ngục vì đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, thì
các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta vì các ngài đã là những bạn hữu nghĩa
thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn
cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên lãng.
Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne là
một mục tử tận tâm chăm sóc đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị chết bất
ngờ, và có tới hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng
của ngài.
Ngài đã nói với các em nhỏ trong giờ giáo
lý cuối cùng như sau:
- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu cha
bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hãy hứa là
sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé.
Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây ý
kiến của một tờ báo Công giáo:
- Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn nơi
luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng và
hỏa ngục. Bạn còn có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa.
Trong ngày đó, chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là hạnh
phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?
24. Các linh hồn
Một
người Mỹ tên là Habốc thành lập một hãng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân
“Liên minh thiên đàng”. Công việc của hãng này là chuyển thư từ của những ai
muốn gởi đến những người thân quen đã qua đời. Thủ tục rất đơn giản: người gởi
chỉ cần viết thư trên một tờ giấy mẫu in sẵn và nộp một khoản cước phí là xong.
Còn làm thế nào để chuyển lá thư ấy đến tay người chết là phận vụ của bưu điện.
“Liên minh thiên đàng”. Theo lời ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới
tay người nhận do nhân viên đưa thưa của hãng là những người sắp chết tình
nguyện chuyển giùm. Những nhân viên tình nguyện này sẽ học thuộc lòng nội dung
bức thư và cam kết sẽ nhắn lại đầy đủ với người nhận. Hơn nữa “Liên minh thiên
đàng” tuyển chọn nhân viên của mình rất cẩn thận. Họ phải là người trong sạch,
không có gì mờ ám trước khi Chúa gọi lìa khỏi đời này, nên nhất định họ sẽ lên
thiên đàng chứ không thể xuống hỏa ngục được. Do uy tín của hãng bưu điện này
ngày càng tăng mạnh mẽ nên ông Habốc đã mở rộng phạm vi hoạt động không những
khắp nước Mỹ mà còn lan sang các lục địa khác nữa.
Mới nghe qua, nhất là đối với những người
vô tôn giáo hay không tin có đời sau thì câu chuyện trên chẳng những kỳ quặc mà
còn phi lý không thể chấp nhận được. Nhưng còn đối với chúng ta không có gì
đáng ngạc nhiên cả, chẳng qua chỉ có khác về cách thức liên hệ mà thôi. Bởi vì,
giáo lý công giáo đã trình rõ ràng từng chi tiết mối dây liên hệ giữa người còn
sống và kẻ đã chết bằng một tín điều quan trọng buộc mọi người phải tin và phải
thực hành: đó là tín điều Các Thánh cùng thông công.
Tuy nhiên, một điều khác biệt giữa tín điều
của người công giáo và hãng bưu điện “Liên minh thiên đàng” của Habốc là cách
thức liên lạc với chết. Cách thức của ông Habốc vừa thiên về vật chất vừa dựa
vào khả năng giới hạn của con người nên rất khó mà đạt được mong muốn. Còn các
thức liên lạc với người quá cố của đạo công giáo phần lớn nhờ vào quyền năng,
lời bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ thể do những cuộc hiện về của
các linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên hệ với người thân quen đã qua
đời đối với chúng ta là một chuyện thường tình, dễ dàng và có từ ngàn xưa. Chỉ
còn lại một công đoạn cuối cùng là chúng ta có muốn liên lạc hay không mà thôi.
Thật vậy, con người sống được với nhau là
nhờ ân nghĩa. Tình nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn sống
mãi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đã qua đời. Hơn nữa, khi
biết sống tình nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo thì mới rõ ai tốt hay
xấu, ai thật lòng ai gian dối. Do đó, tình nghĩa không những là một nhu cầu cần
thiết cho đời sống mà còn là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp, chu toàn
hết khả năng sẵn có.
Nếu thế thì chúng ta, những người còn sống
tại dương thế, đang có tự do hành động theo ý muốn của mình lại càng sống thật
tình nghĩa với những người đã khuất vì giờ đây họ chẳng khác gì những tù nhân
chỉ còn trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống tình nghĩa với
những người đã chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những hình ảnh,
dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều quan
trọng là hãy biến những tình cảm đó thành những hành động thương yêu thật cụ
thể và có giá trị đời đời.
Đó là lý do chính yếu của ngày lễ hôm nay
và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người hãy
hướng lòng về những người thân quen cũng như xa lạ đã qua đời, nhất là ra sức
tìm kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đã biết
rõ cách thức gởi, gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ đến tay các linh hồn. Chỉ
còn lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay không mà
thôi.
Và nếu những người thân quen ở bên kia thế
giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu giúp
của chúng ta, được chóng giải thoát cực hình hay phải giam phạt thêm là hoàn
toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ ơ,
lãng quên họ mãi hay sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức, tìm đủ mọi cách để giải
thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc đức, ăn chay
hãm mình, xin lễ cầu nguyện… Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng, chắc chắn các
Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta.
Đó là chưa nói đến tình máu mủ mà chắc chắn
không ai trong chúng ta nở lòng nào quên tình nghĩa với ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, con cái, cháu chắt, họ hàng thân thuộc đã qua đời chờ sự cứu giúp của
chúng ta. Còn xét về mặt trách nhiệm, nếu những ai đã làm ơn cho chúng ta hoặc
vì lỗi lầm gương xấu của chúng ta mà đang bị gian cầm, chúng ta cần phải đền ơn
và chuộc lỗi lầm cho họ.
Vậy ai còn sống mà không biết tưởng nhớ đến
người chết thì kẻ đó không phải là con người. Và ai chỉ biết tưởng nhớ suông mà
không biết làm những việc lành phúc đức cụ thể thì cũng không thể xứng đáng lám
con cái của Chúa.